Lo ngại lớn nhất là lạm phát
Một điều dễ nhận thấy là
thị trường đang trong tình trạng rất bấp bênh giữa bối cảnh xung đột ở
Ukraine tiếp diễn và lạm phát ngày càng tăng, trong khi hoạt động xây
dựng tiếp tục hồi phục sau giai đoạn trì trệ vì dịch bệnh, nhưng lĩnh
vực ô tô tăng trưởng chậm chạp. Lạm phát trên toàn cầu đã nổi lên như
một trở ngại lớn đối với sự phục hồi kinh tế của ASEAN trong năm 2022 và
những năm tiếp theo.
Tỷ lệ lạm phát ở các nền kinh tế mới nổi và
đang phát triển đã tăng lên 9,37% trong thời gian từ tháng 1 năm 2022
đến tháng 4 năm 2022, so với mức 4,23% của cùng kỳ năm trước, dữ liệu từ
báo cáo Triển vọng Kinh tế Toàn cầu tháng 6 của Ngân hàng Thế giới cho
thấy.
"Tỷ lệ lạm phát trung bình ở các nước ASEAN tăng từ 0,9% vào
tháng 1 năm 2021 lên 3,1% vào tháng 12 năm 2021 và sau đó lên 4,7% vào
tháng 4 năm 2022", Sithanonxay Suvannaphakdy, nhà nghiên cứu chính của
Viện ISEAS – Yusof Ishak, trước đây là Viện Đông Nam Á, cho biết.
Viện
Sắt và Thép Đông Nam Á (SEAISI) đã cảnh báo rằng các doanh nghiệp trong
ngành thép ASEAN sẽ phải tìm kiếm nguồn cung cấp thay thế cho các sản
phẩm thép bán thành phẩm và than luyện cốc vì nhập khẩu từ Nga và
Ukraine bị cắt giảm do xung đột giữa hai nước.
Ngân hàng Thế giới
cho biết: "Nga và Ukraine chiếm một tỷ trọng nhỏ - dưới 3% - trong xuất
khẩu toàn cầu. Tuy nhiên, nhiều ngành công nghiệp toàn cầu phụ thuộc vào
nguồn cung cấp các mặt hàng quan trọng được sản xuất tại hai nước, đặc
biệt là ở Nga".
Nhu cầu thép phục hồi dẫn tới rủi ro
Các
nhà phân tích và nhà kinh doanh trên thị trường nhìn chung đều nghi ngờ
rằng nhu cầu ở ASEAN có thể trở lại mức trước đại dịch sớm nhất là vào
năm 2023.
Trong năm 2022, Hiệp hội Thép thế giới (Worldsteel) dự
báo nhu cầu của ASEAN là 76,1 triệu tấn, tăng 4,8% so với mức 72,6 triệu
tấn vào năm 2021. Tuy nhiên, nhu cầu dự kiến cho năm 2022 vẫn thấp
hơn mức 80,3 triệu tấn được công bố vào năm 2019 – năm trước đại dịch.
Dựa
trên dự báo của Hiệp hội, nhu cầu thép ASEAN dự kiến sẽ trở lại mức
trước đại dịch vào năm 2023, khi dự kiến đạt 80,8 triệu tấn.
Tuy
nhiên, "dự báo cho năm 2022 và 2023 có thể tùy thuộc vào một số kịch
bản nhất định đi kèm với rủi ro theo hướng giảm", Nae Hee Han, Giám đốc
nghiên cứu kinh tế của Worldsteel cho biết tại một sự kiện do SEAISI tổ
chức với chủ đề Dự báo nhu cầu thép ASEAN.
Theo S&P Global, để
đạt công suất 50 triệu tấn/năm, Đông Nam Á có thể phải trải qua một
thập kỷ nữa, thay vì khoảng thời gian 5-6 năm như tính toán trước đây.
Mặc dù dự báo này có vẻ khá thận trọng, song sẽ không có gì ngạc nhiên
nếu tổng công suất mới vẫn thấp hơn mức 50 triệu tấn/năm.
Nhu cầu thép ASEAN chậm chạp
Tại
Indonesia, nhu cầu thép được dự báo là 16,3 triệu tấn vào năm 2022,
tăng 5% so với cùng kỳ năm ngoái, và sẽ tăng lên 17,3 triệu tấn vào năm
2023, được hỗ trợ bởi dự báo lĩnh vực xây dựng trong nước sẽ tăng trưởng
4,9%, Hiệp hội Công nghiệp Gang thép Indonesia cho biết.
Dự kiến
yếu tố hỗ trợ cho nhu cầu thép của Indonesia cũng đến từ ngành công
nghiệp ô tô địa phương - dự kiến sản xuất 1,19 triệu xe vào năm 2022,
tăng so với 1,12 triệu xe vào năm 2021, nhưng vẫn thấp hơn 1,29 triệu xe
được sản xuất vào năm 2019.
"Những gì chúng ta có thể thấy chắc
chắn là sự suy giảm kinh tế. Có thể dự đoán về nhu cầu của Indonesia dựa
trên (dự án) thủ đô mới ở Kalimantan, dự kiến khởi công trong năm
nay", thông tin từ một nhà tiêu thụ thép ở Indonesia cho biết.
Indonesia
đối mặt với nhu cầu thép tăng vọt khi nước này có kế hoạch chuyển thủ
đô từ Jakarta đến Đông Kalimantan vào năm 2024 và đặt tên cho thủ đô mới
là Nusantara.
Một thương nhân có trụ sở tại Indonesia cho biết:
"Trong thời gian từ 2018 đến 2020, tiêu thụ thép trong nước không hề
tăng, năm nào Chính phủ cũng nói là "đang tăng" hoặc "bắt đầu tăng,
nhưng thực tế điều đó đã không xảy ra".
Theo vị thương nhân này,
tiêu thụ thép ở Indonesia không đổi ở mức khoảng 15 triệu tấn trong giai
đoạn 2018-2020. Dữ liệu của Hiệp hội Công nghiệp Gang thép Indonesia
cho thấy nhu cầu năm 2018 ở mức 15,1 triệu tấn, nhích lên 15,9 triệu tấn
năm 2019 và 15,1 triệu tấn cho năm 2020.
Tại Việt Nam, nguồn tín
dụng thắt chặt và các dự án xây dựng và cơ sở hạ tầng bị trì hoãn đã
khiến nhu cầu thép trong lĩnh vực tiêu thụ đầu cuối yếu đi. Các khách
hàng cũng tạm dừng các hoạt động mua bán do giá thép nhập khẩu giảm đều
đặn.
S&P Global trích dẫn dữ liệu của Platts cho biết giá
thép cuộn cán nóng SAE1006 ở mức 667 USD/tấn CFR Đông Nam Á vào ngày
30/6, giảm 12,8% so với mức 765 USD/tấn vào ngày 1/6, giảm mạnh từ mức
cao nhất của năm 2022 là 925 USD/tấn đạt tới vào ngày 7 tháng 3.
Trên Sàn giao dịch Thượng Hải (Trung Quốc), giá thép đã liên tục sụt giảm từ đầu tháng 5/2022 đến nay.
Giá thép thanh vằn trên sàn Thượng Hải.
Công
ty thép Formosa Hà Tĩnh Steel cũng đã thấy số đơn đặt hàng giao trong
tháng 8 giảm đáng kể, làm trầm trọng thêm khả năng sẽ cắt giảm sản lượng
trong những tuần sắp tới.
Việt Nam cùng với Indonesia và
Malaysia đã kiểm soát được lạm phát nhưng áp lực lạm phát cao vẫn đang
đè nặng lên Philippines, Singapore và Thái Lan.
Nước láng giềng
gần gũi của Việt Nam, Thái Lan, đã chứng kiến tỷ lệ lạm phát lên tới
7,1% trong tháng 5, mức cao nhất trong 14 năm, tăng từ mức 4,7% vào
tháng 4, dữ liệu từ Văn phòng Chiến lược và Chính sách Thương mại cho
thấy. Hội đồng Phát triển Kinh tế và Xã hội Quốc gia Thái Lan dự đoán
lạm phát ở mức 4,7% vào năm 2022 và từ 4,2% đến 5,2% vào năm 2023.
"Bất
chấp cú sốc tiêu cực đối với hoạt động toàn cầu vào năm 2022, về cơ bản
không có sự phục hồi dự kiến trong năm tới; tăng trưởng toàn cầu được
dự báo sẽ chỉ đạt 3% vào năm 2023, và nhiều cơn gió ngược – nhất là giá
hàng hóa cao và chính sách tiếp tục thắt chặt tiền tệ - dự kiến sẽ còn
kéo dài", Ngân hàng Thế giới (WB) cho biết.
Theo WB: "Mức độ lạm
phát tăng cao, kết hợp với tăng trưởng giảm tốc mạnh làm dấy lên lo ngại
rằng nền kinh tế toàn cầu đang bước vào thời kỳ lạm phát đình trệ, gợi
nhớ đến những năm 1970".
Tham khảo: Spglobal