Kết thúc phiên giao dịch ngày 9/6, giá
quặng sắt kỳ hạn trên Sàn giao dịch Đại Liên (DCE) và Sàn giao dịch
Singapore (SGX) đồng loạt đi xuống, Reuters đưa tin.
Nguyên
nhân của sự sụt giảm này là do các nhà giao dịch tiếp tục lo lắng về
lợi nhuận yếu tại các nhà máy thép Trung Quốc, với cảnh báo COVID-19 mới
ở Thượng Hải và Bắc Kinh làm sâu sắc thêm mối lo này.
 |
Ảnh minh họa |
Theo
đó, giá quặng sắt chuẩn DCIOcv1 giao tháng 9/2022 trên Sàn DCE của
Trung Quốc kết thúc giao dịch ban ngày thấp hơn 0,3% ở mức 924,50 nhân
dân tệ/tấn (tương đương 138,33 USD/tấn), kéo dài đà giảm sang ngày thứ
ba.
Tương tự, hợp đồng quặng sắt
SZZFN2 giao tháng 7/2022, được giao dịch tích cực nhất trên Sàn giao
dịch Singapore (SGX), giảm 0,8% xuống 143,65 USD/tấn trong cùng ngày.
So
với mức thấp 779,50 nhân dân tệ/tấn của năm nay đạt được vào ngày 10/5,
giá quặng sắt Đại Liên đã tăng trở lại 19% tính đến thời điểm hiện tại.
Trong
khi đó, dữ liệu tư vấn của SteelHome cho thấy, giá quặng sắt giao ngay
62% Fe tiêu chuẩn đã tăng lên 147,50 USD/tấn vào hôm thứ Tư (8/6), cao
nhất trong gần 7 tuần.
Các nhà
phân tích của Sinosteel Futures cho biết: "Nhu cầu quặng sắt ngắn hạn đã
tăng hơn dự kiến, nhưng lợi nhuận của các nhà máy thép ở hạ nguồn lại
yếu. Giá quặng sắt tăng cao đã làm giảm biên lợi nhuận của thép".
Theo
đánh giá của các nhà phân tích, giá quặng sắt hiện có tiềm năng tăng
hạn chế. Trong khi đó, nhu cầu khá lạc quan khi Trung Quốc quyết tâm
giảm sản lượng hơn nữa trong năm nay để hạn chế phát thải.
Tại
thị trường trong nước, nhiều doanh nghiệp thép hạ giá sản phẩm thép từ
chiều 6/6 và là lần giảm thứ 5 liên tiếp trong hơn 3 tuần. Tính từ ngày
11/5, đây là lần giảm thứ năm liên tiếp của giá thép trong nước với tổng
mức giảm hơn 2 triệu đồng/tấn.
Cụ
thể, thương hiệu thép Hòa Phát tại miền Bắc điều chỉnh giảm 300.000
đồng/tấn đối với thép CB240 và D10 CB300, xuống còn 16,95 triệu đồng/tấn
và 17,51 triệu đồng/tấn. Tại miền Nam, giá hai loại thép CB240 và D10
CB300 cũng giảm 300.000 đồng/tấn, xuống còn 16,95 triệu đồng/tấn và
17,41 triệu đồng/tấn.
Tương tự,
thương hiệu thép Việt Ý cũng điều chỉnh giảm lần lượt 300.000 đồng/tấn
và 310.000 đồng/tấn với 2 loại thép CB240 và D10 CB300 xuống còn 16,92
triệu đồng/tấn và 17,42 triệu đồng/tấn.
Thương
hiệu thép Việt Đức cũng giảm giá bán dòng thép cuộn CB240 giảm 300.000
đồng/tấn xuống mức 16,82 triệu đồng/tấn, thép thanh vằn D10 CB300 giảm
310.000 đồng/tấn có giá bán 17,47 triệu đồng/tấn.
Thép
Việt Nhật điều chỉnh giảm 300.000 đồng/tấn với dòng thép cuộn CB240 ở
mức 16,87 triệu đồng/tấn; thép thanh vằn D10 CB300 giảm còn 17,07 triệu
đồng/tấn. Thép Việt Sing tiến hành giảm 310.000 đồng/tấn với thép cuộn
CB240, xuống mức 17 triệu đồng/tấn; dòng thép thanh vằn D10 CB300 giảm
310.000 đồng/tấn, có giá 17,2 triệu đồng/tấn.
Thép
miền Nam cũng giảm mức ứng đối với hai loại thép trên, kéo giá CB240 và
CB300 còn 17,36 triệu đồng/tấn và 17,76 triệu đồng/tấn. Thép Pomina
tiến hành giảm 300.000 đồng/tấn đối với cả 2 loại thép CB240 và CB300,
giá bán còn 17,76 triệu đồng/tấn và 17,96 triệu đồng/tấn.
Giá
thép thanh vằn liên tục đi xuống từ đầu tháng 5, sau đó hồi phục vào
cuối tháng và giảm trở lại ngày 8/6. Về thép không gỉ, giảm là xu hướng
chủ đạo của loại thép này từ cuối tháng 3 và hiện giá mặt hàng này hạ 8%
so với đỉnh.
Các chuyên gia cho
rằng tốc độ phục hồi vẫn còn chậm và nhu cầu thép có thể sẽ tiếp tục mờ
nhạt cho đến khi sản xuất chế tạo có thể trở lại bình thường.
Nguyên
nhân khiến giá thép trong nước quay đầu giảm mạnh sau thời gian tăng
nóng được cho là giá phôi thép và nguyên vật liệu đầu vào có xu hướng đi
xuống trong thời gian gần đây. Giá nguyên vật liệu trong sản xuất thép
liên tục giảm từ cuối tháng 3 đến nay khiến thị trường thép chững lại.
Sản
lượng bán hàng thép các loại chỉ đạt hơn 2,4 triệu tấn, giảm 22,52% so
với tháng 3 và giảm 15,6% so với cùng kỳ năm trước. Và lượng xuất khẩu
cũng sụt mạnh tới 44% so với tháng 3 và chỉ tăng nhẹ gần 5% so với năm
2021.
Báo cáo của VSA cho thấy,
sản xuất thép thành phẩm 4 tháng đầu năm đạt 11,43 triệu tấn, tăng 2,2%
so với cùng kỳ năm 2021. Bán hàng thép thành phẩm đạt 10,55 triệu tấn,
tăng 4,1% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó, xuất khẩu đạt 2,45 triệu
tấn, tăng 9,4% so với cùng kỳ năm ngoái.
Tính
chung quý I, nhập khẩu thép thành phẩm các loại về Việt Nam khoảng 3
triệu tấn với trị giá hơn 3,1 tỷ USD, giảm 18,04% về lượng nhưng tăng
18,84% về giá trị. Thời gian tới Việt Nam sẽ tiếp tục triển khai nhiều
dự án đầu tư công quy mô lớn, đưa sản lượng tiêu thụ thép tăng mạnh,
nhiều khả năng tác động lên giá thép.
Trước
đó lý giải việc tăng giá thép, Bộ Công Thương cho rằng, việc giá thép
tăng đột biến trong thời gian qua không chỉ ở Việt Nam mà là tăng giá
trên toàn thế giới. Do các nhà máy sản xuất thép trong nước phụ thuộc
phần lớn vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu nên việc tăng giá bán các sản
phẩm thép là không thể tránh khỏi.
Nguồn: Hạ Vy